Những bất cập trong giải quyết vụ án hình sự theo thủ tục rút gọn
Thủ tục rút gọn được áp dụng để giải quyết các vụ án hình sự khi đáp ứng đủ điều kiện theo quy định của pháp luật. Việc quy định thủ tục rút gọn trong Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) là nhằm tăng cường hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm, đẩy nhanh việc điều tra, truy tố, xét xử đối với những vụ án ít nghiêm trọng, có tính chất đơn giản, hành vi phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, chứng cứ rõ ràng. Mục đích của việc áp dụng thủ tục rút gọn là giải quyết vụ án nhanh chóng nhưng vẫn bảo đảm đúng pháp luật, tiết kiệm thời gian, công sức, kinh phí của các cơ quan tiến hành tố tụng.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định về thủ tục rút gọn tại Chương XXXI (từ Điều 455 đến Điều 465), theo đó Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết vụ án khi có đầy đủ 04 điều kiện quy định tại Điều 456 Bộ luật này. Thực tế, số vụ án áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết còn ít, do số lượng vụ án, công việc của các cơ quan tiến hành tố tụng nhiều, phức tạp cần tập trung nhân lực và thời gian để giải quyết; trong khi áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết vụ án có thời gian ngắn, không thể gia hạn được nên khó hoàn thành trong thời hạn luật định. Vì vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng thường chọn giải quyết vụ án theo thủ tục chung để chủ động về mặt thời gian…
Một số vướng mắc khi áp dụng thủ tục rút gọn
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định thủ tục rút gọn cụ thể, rõ ràng hơn so với BLTTHS năm 2003. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng vẫn còn những khó khăn, vướng mắc cần cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn để thực hiện thống nhất.
Thứ nhất, Điều 456 BLTTHS năm 2015 quy định để áp dụng thủ tục rút gọn phải đáp ứng được 04 điều kiện, đó là: Người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang hoặc người đó tự thú; sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng; tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng; người phạm tội có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng. Nếu không đáp ứng đủ 04 điều kiện nêu trên thì không được giải quyết theo thủ tục rút gọn mà phải giải quyết theo thủ tụng chung. Thực tế, có trường hợp đáp ứng được các điều kiện: Sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng, tội phạm thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng hoặc là tội phạm nghiêm trọng nhưng thuộc trường hợp phạm tội đơn giản, người phạm tội có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng, tuy nhiên người phạm tội đầu thú mà không phải tự thú nên cơ quan tiến hành tố tụng không thể áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết.
Thứ hai, hiểu như thế nào là “sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng” và “người phạm tội có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng”, phụ thuộc vào đánh giá của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Đây là quy định tùy nghi nên nhận thức và áp dụng hai điều kiện này chưa thống nhất, dẫn đến có những vụ án nội dung, tính chất tương tự nhau, nhưng có trường hợp áp dụng, có trường hợp lại không áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết.
Ví dụ: Bị can Nguyễn Văn A phạm tội trộm cắp tài sản, theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015. Bị can A phạm tội quả tang, có nơi cư trú, chứng cứ rõ ràng, phạm tội ít nghiêm trọng. Nhưng về nhân thân, bị can A có một tiền án về Tội trộm cắp tài sản, một tiền sự về hành vi đánh bạc cần phải xác minh, thu thập tài liệu để xác định bị can A thuộc trường hợp tái phạm hay không tái phạm. Với vụ án này, thời gian tiến hành các thủ tục điều tra, xác minh, thu thập chứng cứ, nhân thân mất nhiều thời gian. Vậy vụ án trên có thuộc trường hợp: Phạm tội đơn giản, lý lịch rõ ràng hay không? Có áp dụng thủ tục rút gọn được không?
Thứ ba, về thời hạn ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn của các cơ quan tiến hành tố tụng: Khoản 1 Điều 457 BLTTHS năm 2015 quy định: “Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi vụ án có đủ điều kiện quy định tại Điều 456 của Bộ luật này, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn”, quy định này có những quan điểm, cách hiểu khác nhau.
Quan điểm thứ nhất cho rằng, trong thời hạn 24 giờ kể từ ngày khởi tố vụ án đối với Cơ quan điều tra, 24 giờ kể từ ngày nhận được đề nghị truy tố và hồ sơ vụ án đối với Viện kiểm sát, 24 giờ kể từ ngày thụ lý vụ án đối với Tòa án thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn nếu xét thấy có đủ điều kiện để giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn.
Quan điểm thứ hai cho rằng, thời hạn 24 giờ kể từ khi vụ án có đủ điều kiện quy định tại Điều 456 BLTTHS năm 2015 được hiểu là đến ngày thứ 20 đối với giai đoạn điều tra, ngày thứ 5 đối với giai đoạn truy tố, ngày thứ 10 đối với giai đoạn xét xử, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết vụ án miễn là đảm bảo thời gian, thủ tục theo quy định của BLTTHS năm 2015.
Tác giả cho rằng, nếu xét thấy vụ án có đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục rút gọn trong thời hạn 24 giờ sau khi khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can, Cơ quan điều tra phải ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn. Đối với Viện kiểm sát, thời hạn 24 giờ kể từ ngày nhận quyết định đề nghị truy tố và hồ sơ vụ án phải ra quyết định áp dụng hay không áp dụng thủ tục rút gọn. Đối với Tòa án thời hạn 24 giờ kể từ ngày thụ lý hồ sơ vụ án phải ra quyết định áp dụng hay không áp dụng thủ tục rút gọn, bởi thủ tục rút gọn được áp dụng xuyên suốt từ giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Có thể giai đoạn điều tra không áp dụng thủ tục rút gọn nhưng đến giai đoạn truy tố, xét xử, Viện kiểm sát, Tòa án xét thấy đủ điều kiện để áp dụng thì ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn trong thời hạn 24 giờ kể từ ngày nhận được quyết định truy tố, thụ lý hồ sơ vụ án, vì còn liên quan đến áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác như tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú. Theo quy định tại Điều 459 BLTTHS năm 2015 thời hạn tạm giam, lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú không được quá thời hạn điều tra, truy tố, xét xử vụ án.
Thứ tư, trường hợp Thẩm phán được phân công giải quyết, xét xử vụ án theo thủ tục rút gọn ra quyết định “trả hồ sơ để điều tra bổ sung” thì Viện kiểm sát hay Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định áp dụng thủ tục rút gọn. Vấn đề này vẫn còn có ý kiến không thống nhất.
Điều 458 BLTTHS năm 2015 quy định: “Trong quá trình áp dụng thủ tục rút gọn, nếu một trong các điều kiện quy định tại các điểm b, c và d khoản 1 Điều 456 của Bộ luật này không còn hoặc vụ án thuộc trường hợp tạm đình chỉ điều tra, tạm đình chỉ vụ án hoặc trả hồ sơ để điều tra bổ sung theo quy định của Bộ luật này thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định áp dụng thủ tục rút gọn và giải quyết vụ án theo thủ tục chung”. Vậy trường hợp Thẩm phán được phân công giải quyết, xét xử vụ án theo thủ tục rút gọn ra quyết định “trả hồ sơ để điều tra bổ sung” thì Viện kiểm sát hay Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định áp dụng thủ tục rút gọn. Có ý kiến cho rằng, việc áp dụng thủ tục rút gọn được áp dụng ở giai đoạn điều tra, truy tố, do đó, nếu Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ quyết định áp dụng thủ tục rút gọn và tiến hành điều tra bổ sung theo thủ tục chung.
Tác giả cho rằng, trong thời hạn 10 ngày, qua nghiên cứu hồ sơ vụ án Tòa án xét thấy cần phải trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung thì trước khi ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung Tòa án phải ra quyết định hủy bỏ quyết định áp dụng thủ tục rút gọn. Bởi vì, khi trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung, có thể Viện kiểm sát chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu điều tra bổ sung của Tòa án. Nếu Viện kiểm sát cho rằng quyết định trả hồ sơ của Tòa án là không có căn cứ, không chấp nhận và giao lại hồ sơ cho Tòa án thì Tòa án sau khi nhận lại hồ sơ vụ án sẽ giải quyết, xét xử theo thủ tục chung. Điều 277 BLTTHS năm 2015 quy định rõ: Đối với vụ án được trả lại để yêu cầu điều tra bổ sung thì trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận lại hồ sơ vụ án, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải đưa vụ án ra xét xử. Do đó, trước khi trả hồ sơ để điều tra bổ sung, Tòa án phải ra quyết định hủy bỏ quyết định áp dụng thủ tục rút gọn mà không phải Viện kiểm sát ra quyết định.
Thứ năm, về trường hợp Tòa án không thể mở phiên tòa trong thời hạn 7 ngày vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan.
Theo quy định, Tòa án xét xử vụ án hình sự theo thủ tục rút gọn trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày ra quyết định xét xử, Tòa án phải mở phiên tòa xét xử vụ án. Như vậy, quy định này bắt buộc trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày ra quyết định xét xử Tòa án phải mở phiên tòa xét xử vụ án mà không được kéo dài thời hạn mở phiên tòa như xét xử theo thủ tục chung. Tuy nhiên, trong thực tế có trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan, Tòa án không thể mở phiên tòa trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày ra quyết định xét xử.
Ví dụ: Vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn nhưng do tình hình dịch bệnh Covid 19 diễn biến phức tạp, Tòa án không thể mở phiên tòa xét xử trong thời hạn 07 ngày. Trường hợp này giải quyết như thế nào?
Ý kiến thứ nhất cho rằng, Tòa án căn cứ tình hình dịch bệnh Covid 19 diễn biễn phức tạp ra quyết định hoãn phiên tòa chờ tình hình dịch bệnh ổn định rồi mới tiếp tục giải quyết, xét xử vụ án;
Ý kiến thứ hai cho rằng, vì lý do bất khả kháng, do trở ngại khách quan là tình hình dịch bệnh Covid 19 diễn biến phức tạp, không thể xét xử vụ án trong thời hạn 07 ngày, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định áp dụng xét xử vụ án theo thủ tục rút gọn, để giải quyết vụ án theo thủ tục chung, sau đó ra quyết định hoãn phiên tòa, chờ tình hình dịch bệnh ổn định mới tiếp tục giải quyết vụ án. Tác giả đồng tình với ý kiến thứ hai, bởi vì, BLTTHS năm 2015 không quy định xét xử theo thủ tục rút gọn được gia hạn thời gian xét xử vụ án và hoãn phiên tòa, đây là vướng mắc trên thực tế cần được cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn để áp dụng thống nhất.
Thứ sáu, về thẩm quyền ra quyết định tạm giam bị cáo sau khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm theo thủ tục rút gọn: Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 chưa quy định cụ thể thẩm quyền ra quyết định tạm giam bị cáo sau khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm đối với vụ án hình sự được xét xử theo thủ tục rút gọn nên việc áp dụng chưa thống nhất. Có ý kiến cho rằng, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa xét xử theo thủ tục rút gọn có thẩm quyền ra quyết định tạm giam bị cáo sau khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm. Bởi vì, khoản 1 Điều 463 BLTTHS năm 2015 quy định: “Phiên tòa xét xử sơ thẩm theo thủ tục rút gọn do một Thẩm phán tiến hành’’ và khoản 1 Điều 329 BLTTHS năm 2015 quy định rõ: “Trường hợp bị cáo đang bị tạm giam, bị xử phạt tù nhưng xét thấy cần tiếp tục tạm giam để bảo đảm thi hành án thì Hội đồng xét xử ra quyết định tạm giam bị cáo, trừ trường hợp được quy định tại khoản 4, 5 Điều 328 của Bộ luật này’’. Do đó, trường hợp Hội đồng xét xử do một Thẩm phán tiến hành thì Thẩm phán đó có thẩm quyền ra quyết định tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án. Tác giả cho rằng, vụ án được xét xử theo thủ tục rút gọn, Chánh án Tòa án có thẩm quyền ra quyết định tạm giam bị cáo sau khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm, bởi vì căn cứ, thẩm quyền, thủ tục tạm giữ, tạm giam theo thủ tục rút gọn được thực hiện theo quy định của BLTTHS và khoản 1 Điều 278 BLTTHS năm 2015 đã quy định: “Sau khi thụ lý vụ án, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa quyết định việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, trừ việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giam do Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quyết định’’. Tòa án xét xử theo thủ tục rút gọn do một Thẩm phán tiến hành và không tiến hành nghị án nên không được xem là Hội đồng xét xử. Do đó, khi xét xử theo thủ tục rút gọn, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa không có thẩm quyền ra quyết định tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.
Ngoài ra, BLTTHS năm 2015 chưa quy định trách nhiệm về việc không áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết vụ án khi có đủ điều kiện theo quy định. Do đó việc áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết vụ án hình sự trở thành lựa chọn tùy nghi, có thể áp dụng hoặc không áp dụng.
Một số đề xuất, kiến nghị
Từ những vướng mắc nêu trên, thiết nghĩ cơ quan có thẩm quyền cần có văn bản hướng dẫn để cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện thống nhất thủ tục rút gọn, cụ thể như sau:
Thứ nhất, đề nghị sửa đổi, bổ sung điểm a khoản 1 Điều 456 BLTTHS năm 2015 theo hướng: “Người phạm tội bị bắt quả tang hoặc người đó đầu thú, tự thú” để áp dụng thủ tục rút gọn trong trường hợp người phạm tội đầu thú cho phù hợp với thực tiễn.
Thứ hai, cơ quan có thẩm quyền cần hướng dẫn cụ thể các điều kiện: “Sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng” và “người phạm tội có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng”, quy định tại điểm b và d khoản 1 Điều 456 BLTTHS năm 2015; hướng dẫn trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan Tòa án không thể mở phiên tòa trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày ra quyết định xét xử theo thủ tục rút gọn hoặc bổ sung căn cứ hoãn phiên tòa tại khoản 1 Điều 297 BLTTHS năm 2015: ‘‘Tòa án hoãn phiên tòa khi thuộc một trong các trường hợp:…đ) Do sự kiện bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan’’.
Thứ ba, hướng dẫn trường hợp Thẩm phán được phân công xét xử vụ án theo thủ tục rút gọn ra quyết định “trả hồ sơ để điều tra bổ sung” thì Viện kiểm sát hay Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định áp dụng thủ tục rút gọn. Quy định cụ thể thời hạn phải ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn của các cơ quan tiến hành tố tụng; hướng dẫn thẩm quyền ra quyết định tạm giam bị cáo sau khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm theo thủ tục rút gọn.
Thứ tư, đề nghị bổ sung quy định xử lý trách nhiệm đối với cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trực tiếp giải quyết vụ án không áp dụng thủ tục rút gọn khi vụ án có đủ điều kiện. Đưa tiêu chí giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn vào tiêu chí xét thi đua, cũng như xem xét tái bổ nhiệm lại các chức danh, nhằm nâng cao tinh thần, trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng./.
Ths. Lê Đình Nghĩa, Ths. Dương Thị Hồng Thuận
Nguồn: Cổng thông tin điện tử Viện kiểm sát nhân dân tối cao (https://www.vksndtc.gov.vn)
Tin liên quan
Một số góp ý xây dựng quy định về trách nhiệm của Trọng tài viên khi sửa Luật Trọng tài thương mại
(Pháp lý). Nghiên cứu Luật Trọng tài Thương mại ( TTTM) hiện hành hiện thiếu vắng quy định cụ thể về trách nhiệm hay giới hạn trách nhiệm cho trọng tài viên. Điều này có thể dẫn tới những hệ quả. Do ...
Xem thêmBất cập quy định định giá tài sản khi góp vốn đầu tư vào doanh nghiệp
Pháp lý) – Pháp luật về doanh nghiệp quy định ngoài tài sản góp vốn là Đồng Việt Nam, các tổ chức và cá nhân được quyền góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ ...
Xem thêmMột số vấn đề về định giá tài sản, thẩm định giá tài sản trong tố tụng dân sự
Hoạt động định giá tài sản, thẩm định giá tài sản trong tố tụng dân sự là một hoạt động khá phổ biến đối với các loại tranh chấp khi giải quyết tại Tòa án. Kết quả của định giá tài sản, thẩm định giá ...
Xem thêm