Bảo vệ người thứ ba ngay tình trong giao dịch dân sự
Pháp luật dân sự hiện hành quy định việc bảo vệ người thứ ba ngay tình trong giao dịch dân sự. Vậy thế nào là người thứ ba ngay tình và người thứ ba ngay tình được bảo vệ quyền lợi trong giao dịch dân sự được pháp luật quy định ra sao? Thông qua bài viết này sẽ giúp mọi người hiểu rõ quy định này như sau:
* Người thứ ba ngay tình trong giao dịch dân sự: pháp luật dân sự không định nghĩa cụ thể thế nào người thứ ba ngay tình nhưng có thể hiểu người thứ ba ngay tình là người tại thời điểm tham gia giao dịch dân sự người này không có cơ sở để biết việc giao dịch của mình với người không có quyền định đoạt tài sản hoặc đối tượng tài sản của giao dịch liên quan đến giao dịch trước đó đã bị vô hiệu do tại thời điểm khi tham gia vào giao dịch dân sự, người thứ ba ngay tình hoàn toàn tin rằng người giao dịch với mình là người có quyền giao dịch và đối tượng tài sản giao dịch đáp ứng các điều kiện để giao dịch dân sự có hiệu lực, từ đó cho thấy người ngay tình hoàn toàn không có lỗi khi tham gia vào giao dịch. Vì vậy, pháp luật dân sự đưa ra biện pháp bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình trong giao dịch dân sự, trong trường hợp giao dịch dân sự dẫn đến vô hiệu không do lỗi của người thứ ba.
* Người thứ ba ngay tình được bảo vệ quyền lợi khi giao dịch dân sự vô hiệu trong các trường hợp sau:
– Trường hợp thứ 1: Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng đối tượng của giao dịch là tài sản không phải đăng ký đã được chuyển giao cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch được xác lập, thực hiện với người thứ ba vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp quy định tại Điều 167 của Bộ luật này (khoản 1 Điều 133 BLDS năm 2015), tức là trừ trường hợp người chiếm hữu ngay tình hay người thứ ba ngay tình có được động sản này thông qua hợp đồng không có đền bù với người không có quyền định đoạt tài sản hoặc trong trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu.
Trong trường hợp này pháp luật quy định để người thứ ba được xem là ngay tình thì người thứ ba không có cơ sở để biết mình tham gia vào giao dịch dân sự với người không có quyền định đoạt tài sản hoặc đối tượng tài sản của giao dịch liên quan đến giao dịch trước đó đã bị vô hiệu và người thứ ba có căn cứ tin rằng đối tượng tài sản và chủ thể giao dịch với mình có đủ điều kiện tham gia giao dịch theo quy định của pháp luật. Trường hợp này thường xảy ra đối với những tài sản là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu như: xe đạp, laptop, điện thoại di động… Tuy nhiên, đối với trường hợp người thứ ba có được tài sản thông qua giao dịch dân sự không có đền bù với người không có quyền định đoạt tài sản như: tặng cho, thừa kế… hoặc trong trường hợp giao dịch với những loại tài sản bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu thì giao dịch với người thứ ba bị vô hiệu và chủ sở hữu có quyền đòi lại tài sản đó.
Ví dụ: Để có tiền chơi điện tử A (13 tuổi) bán chiếc xe đạp của ba mẹ cho anh B, sau đó anh B đã bán chiếc xe đạp này cho anh C, anh C đã trả tiền mua xe đạp cho A và nhận xe. Trong trường hợp này, xét theo quy định của Điều 21 BLDS năm 2015 thì giao dịch giữa A và anh B bị vô hiệu do anh B giao dịch với người chưa đủ 15 tuổi và việc bán chiếc xe đạp này của A không nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày, đồng thời chưa có sự đồng ý của ba mẹ A, còn đối với giao dịch giữa anh B và anh C không bị vô hiệu vì đủ điều kiện để giao dịch có hiệu lực, mặc dù giao dịch ban đầu đối với tài sản đem ra giao dịch là chiếc xe đạp đã bị vô hiệu, vì theo Khoản 1 Điều 133 BLDS năm 2015 “Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng đối tượng của giao dịch là tài sản không phải đăng ký đã được chuyển giao cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch được xác lập, thực hiện với người thứ ba vẫn có hiệu lực”. Như vậy chiếc xe đạp mà anh C mua theo quy định của pháp luật là tài sản không phải đăng ký quyền sở hữu, do đó anh C không có cơ sở để biết rằng mình mua chiếc xe đạp là đối tượng tài sản giao dịch trước đó đã bị vô hiệu, trong trường hợp này anh C được coi là người thứ ba ngay tình và được pháp luật bảo vệ quyền lợi, lúc này chủ sở hữu tài sản là cha mẹ của A không có quyền đòi lại tài sản từ anh C. Nhưng ngược lại nếu anh C có được chiếc xe đạp do được anh B tặng không phải là mua hoặc trong trường hợp anh C mua lại chiếc xe đạp từ anh B nhưng chiếc xe đạp này anh B trộm của gia đình A thì căn cứ theo quy định tại Điều 167 của BLDS năm 2015 thì chủ sở hữu của chiếc xe đạp là cha mẹ của A vẫn có quyền đòi lại chiếc xe đạp từ anh C vì anh C có được tài sản này do được ông B tặng cho là hợp đồng không có đền bù hoặc anh C có được tài sản này mua lại chiếc xe đạp do anh B trộm mặc dù anh C không biết được chiếc xe đạp mình mua do ông B trộm.
– Trường hợp thứ 2: Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu (đoạn 2 khoản 2 Điều 133 BLDS năm 2015)
Trong trường hợp này được hiểu là người thứ ba tham gia giao dịch dân sự đối với tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, do đó mặc dù tài sản này là đối tượng giao dịch dân sự trước đó đã bị vô hiệu thì giao dịch dân sự vẫn phát sinh hiệu lực đối với người thứ ba vì người thứ ba đã căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch, trường hợp này người thứ ba được xem là ngay tình và được pháp luật bảo vệ quyền lợi khi xảy ra tranh chấp.
– Trường hợp thứ ba: Trường hợp tài sản phải đăng ký mà chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì giao dịch dân sự với người thứ ba bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá tại tổ chức có thẩm quyền hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó chủ thể này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị huỷ, sửa. (đoạn 2 khoản 2 Điều 133 BLDS năm 2015)
Ví dụ: Do anh B là bạn bè thân thiết, nên anh A đã cho anh B mượn xe máy sử dụng, tuy nhiên sau đó anh B đã bán chiếc xe máy này với giá rẻ cho anh C, vì ham rẻ và không am hiểu pháp luật anh C đồng ý mua mặc dù xe không có giấy tờ. Xét theo quy định tại khoản 3 Điều 133 BLDS năm 2015 “Trường hợp tài sản phải đăng ký mà chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì giao dịch dân sự với người thứ ba bị vô hiệu”. Vậy trong trường hợp này anh C không là người thứ ba ngay tình vì đối với những loại tài sản cụ thể như xe máy pháp luật quy định tài sản này phải được đăng ký theo quy định của Thông tư số 15/2014/TT-BCA của Bộ Công an ngày 04/4/2014 quy định về đăng ký xe, như vậy trong trường hợp này xe không có các loại giấy tờ theo quy định thì sẽ không hoàn tất được thủ tục đăng ký, do đó anh C không được pháp luật bảo vệ quyền lợi vì không ngay tình và phải trả lại tài sản nếu chủ sở hữu kiện đòi lại tài sản.
Tuy nhiên, trong trường hợp này pháp luật quy định nếu người thứ ba tham gia giao dịch dân sự đối với đối tượng tài sản chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng người thứ ba nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá tại tổ chức có thẩm quyền hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó chủ thể này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị huỷ, sửa, trong các trường hợp này người thứ ba sẽ được pháp luật công nhận là người thứ ba ngay tình và được pháp luật bảo vệ, bởi lẽ trong trường hợp này người thứ ba đã căn cứ vào việc tài sản đã được thông qua bán đấu giá tại cơ quan, tổ chức có thẩm quyền hoặc căn cứ vào bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã quyết định người giao dịch với mình có quyền sở hữu tài sản đó, do đó người thứ ba xác lập, thực hiện giao dịch đối với đối tượng tài sản này không bị vô hiệu, mặc dù tài sản là đối tượng của giao dịch trước đã bị vô hiệu.
Ví dụ: Anh A căn cứ vào Bản án hôn nhân và gia đình giữa anh B và chị C để xác lập giao dịch với chị C đối với tài sản mà chị C được nhận là ngôi nhà. Trong thời gian anh A làm thủ tục đăng ký theo quy định của pháp luật thì bản án bị sửa theo kháng nghị giám đốc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, theo đó bản án sửa lại công nhận quyền sở hữu ngôi nhà này là của anh B chứ không phải của chị C, nhưng trong trường hợp này theo quy định của pháp luật giao dịch giữa anh A với chị C đối với tài sản là ngôi nhà này vẫn có hiệu lực pháp luật, mặc chị C không phải chủ sở hữu của ngôi nhà.
Bên cạnh đó, để bảo vệ quyền lợi chủ sở hữu thực sự của tài sản và của cả người thứ ba ngay tình khi tham gia các giao dịch dân sự liên quan đến đối tượng giao dịch cùng là một tài sản, khoản 3 Điều 133 BLDS năm 2015 quy định chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ người thứ ba ngay tình, nếu giao dịch dân sự với người này không bị vô hiệu theo quy định nhưng có quyền khởi kiện, yêu cầu chủ thể có lỗi dẫn đến việc giao dịch được xác lập với người thứ ba phải hoàn trả những chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại. Như vậy, pháp luật quy định trong trường hợp chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ người thứ ba ngay tình thì chủ sở hữu vẫn có quyền khởi kiện, yêu cầu chủ thể có lỗi dẫn đến việc giao dịch được xác lập với người thứ ba phải hoàn trả những chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại.
Từ các trường hợp pháp luật quy định bảo vệ người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu rút ra vấn đề là nếu tài sản tham gia giao dịch dân sự mà pháp luật quy định phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì người tham gia giao dịch cần phải tìm hiểu tài sản này có được đăng ký hay chưa, nếu tài sản chưa được đăng ký theo đúng quy định thì không nên giao dịch hoặc chỉ nên tham gia giao dịch dân sự đối với tài sản đã thông qua bán đấu giá tại tổ chức có thẩm quyền hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản, nhằm trong trường hợp người tham gia giao dịch với đối tượng tài sản của giao dịch liên quan đến giao dịch trước đó đã bị vô hiệu hoặc đối với người không có quyền định đoạt tài sản vì không phải là chủ sở hữu do bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền bị hủy, bị sửa. Đối với các trường hợp này, theo quy định của pháp luật người thứ ba tham gia giao dịch được xem là ngay tình và giao dịch dân sự vẫn phát sinh hiệu lực đối với người thứ ba, ngược lại nếu người tham gia giao dịch không xem xét các khía cạnh này thì sẽ không được xem là người thứ ba ngay tình và giao dịch dân sự sẽ bị vô hiệu, do đó người thứ ba sẽ không được pháp luật bảo vệ quyền lợi khi phát sinh tranh chấp. Vì vậy, người dân khi tham gia giao dịch dân sự cần thận trọng trong việc xác lập các giao dịch dân sự, nhất là các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản có giá trị lớn./.
Tin liên quan
Hệ thống Tòa án và các cấp Thẩm phán của Trung Quốc
Qua nghiên cứu Luật tổ chức Tòa án và Luật Thẩm phán của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, tác giả xin giới thiệu về cơ cấu tổ chức của hệ thống Tòa án và các cấp Thẩm phán của quốc gia này, đây có ...
Xem thêmQuy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân tại một số quốc gia trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam
Dựa trên các học thuyết về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại và quy định của các nước Trung Quốc, Pháp, Nhật Bản, Mỹ, tác giả kiến nghị hoàn thiện Bộ luật Hình sự năm 2015: Mở rộng đối ...
Xem thêmĐiều khoản “Miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do chậm trễ” trong hợp đồng xây dựng quốc tế
Điều khoản “miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do chậm trễ” là một công cụ pháp lý thường được sử dụng trong các hợp đồng xây dựng quốc tế. Tuy nhiên, vấn đề về tính hợp pháp của điều khoản này ...
Xem thêm