Một số kinh nghiệm quốc tế về phòng, chống rửa tiền và ngăn ngừa sự dịch chuyển các tài sản bất minh
Rửa tiền là loại tội phạm nguy hiểm hiện nay với nhiều thủ đoạn tinh vi và hình thức phức tạp gây ảnh hưởng tiêu cực đối với nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới. Hoạt động rửa tiền còn làm sai lệch các số liệu thống kê, gây khó khăn cho việc hoạch định chính sách, từ đó, làm suy giảm hiệu quả điều tiết, hiệu quả của các công cụ tiền tệ của chính phủ. Đồng thời, loại tội phạm nguy hiểm này còn kích thích các hành vi tội phạm kinh tế như trốn thuế, tham ô, mua bán nội gián, gian lận thương mại. Các giao dịch ngầm từ hoạt động này làm suy giảm hiệu quả kinh tế của các giao dịch hợp pháp, gây mất lòng tin đối với thị trường. Hệ thống tổ chức tài chính nói riêng và nền kinh tế nói chung sẽ bị suy yếu, thậm chí có thể bị thao túng bởi các băng nhóm tội phạm. Xuất phát từ sự nguy hại của rửa tiền đối với nền kinh tế, nhiều quốc gia trên thế giới đã và đang có những nỗ lực trong phòng chống rửa tiền và ngăn ngừa sự dịch chuyển các tài sản bất minh.
Hoạt động hợp tác quốc tế trong phòng, chống rửa tiền và ngăn ngừa sự dịch chuyển các tài sản bất minh cũng đang diễn ra rất mạnh mẽ và đa dạng. Nhiều quốc gia trên thế giới đã có những hoạt động hợp tác song phương và đa phương trong cuộc chiến chống nạn rửa tiền và ngăn ngừa sự dịch chuyển của các tài sản bất minh. Các hình thức hợp tác quốc tế rất đa dạng như hỗ trợ tập huấn, nâng cao năng lực; điều tra chung; trao đổi thông tin, chứng cứ; cùng xây dựng và cam kết chuẩn mực chung về phòng, chống rửa tiền…
Những tổ chức và thiết chế điển hình phòng chống rửa tiền và ngăn ngừa sự dịch chuyển của các tài sản bất minh có thế kể đến như hoạt động của Tổ chức Cảnh sát hình sự quốc tế (Interpol), hoạt động của Lực lượng đặc nhiệm tài chính chống rửa tiền (FATF), hoạt động của Chương trình chống rửa tiền toàn cầu của Liên Hợp Quốc (GPML)…
1. Tổ chức Cảnh sát hình sự quốc tế (International Criminal Police Organization – Interpol)
Interpol là tên gọi thường dùng của Tổ chức Cảnh sát Hình sự Quốc tế (tiếng Anh: International Criminal Police Organization), một tổ chức liên Chính phủ được thành lập ngày 07/9/1923 tại Viên, Áo với mục đích củng cố hoạt động chung của các cơ quan cảnh sát quốc gia[1].
Interpol đặt văn phòng thường trực ở Saint-Cloud (Paris) có tên gọi là Ủy ban Cảnh sát hình sự quốc tế và được tái lập năm 1946 – sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, dưới tên gọi chính thức International Police, gọi tắt là Interpol. Đến năm 1956, tổ chức này đổi tên thành Tổ chức Cảnh sát hình sự quốc tế, nhưng trên thực tế, vẫn được quen gọi là Interpol. Từ ngày 01/5/1989, Tổ chức Interpol chuyển về Trung tâm quốc tế của thành phố Lyon, Pháp. Tại đó, Interpol có một thư viện lưu trữ hồ sơ tội phạm quốc tế và cũng là nơi tổ chức các cuộc họp định kỳ. Interpol cũng có văn phòng đại diện ở bảy quốc gia: Argentine, Cameroun, Côte d’Ivoire, El Salvador, Kenya, Thái Lan và cũng có đại diện tại Trụ sở Liên Hợp Quốc ở New York. Interpol là tổ chức liên Chính phủ, bao gồm 188 thành viên là lực lượng cảnh sát của các quốc gia thành viên, nhằm phối hợp các nước với nhau trên mặt trận chống tội phạm quốc tế như buôn người, rửa tiền, buôn bán ma túy, khủng bố…
Về tổ chức, Đại hội đồng là cơ quan cao nhất, Ủy ban Hành pháp do một Chủ tịch đứng đầu, Cơ quan thường trực do một Tổng thư ký đứng đầu. Ngân sách hoạt động do các nước thành viên đóng góp.
Về tôn chỉ hoạt động, Interpol hoạt động độc lập theo tôn chỉ tôn trọng chủ quyền các quốc gia thành viên, không can thiệp vào công việc nội bộ. Đối tượng điều tra chỉ là tội phạm hình sự. Lực lượng này không điều tra các vấn đề liên quan đến chính trị, tôn giáo, quân đội, kỳ thị chủng tộc…
Về mục tiêu hoạt động, Interpol không phải là một tổ chức cảnh sát thuần túy vì Interpol chỉ là một cơ quan đầu não chuyên về điều tra, theo dõi, cung cấp tư liệu liên quan đến tội phạm hình sự, khủng bố. Interpol không tham gia vào công việc bắt bớ hay bất kỳ một hoạt động can thiệp vũ trang nào. Các hoạt động đó đều do cơ quan cảnh sát địa phương của quốc gia có liên quan xử lý. Nhưng, Interpol có thể giúp đỡ các tổ chức cảnh sát địa phương trong việc theo dõi tiến trình hoạt động của các kẻ bị truy nã và phát lệnh truy nã cho các quốc gia thành viên.
Công việc chính của Interpol là theo dõi, điều tra phát hiện các tội phạm như: Rửa tiền; buôn bán người, trẻ em; buôn bán ma túy,vũ khí; tội phạm công nghệ cao; tội phạm có tổ chức; chống khủng bố… nhằm góp phần giữ gìn trật tự xã hội trên toàn cầu[2].
Ngôn ngữ sử dụng trong Interpol bao gồm tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha và tiếng Ả Rập. Tạp chí “Cảnh sát hình sự quốc tế” xuất bản hàng tháng bằng bốn thứ tiếng trên[3].
Một trong những nhiệm vụ chính của Interpol là giúp lực lượng cảnh sát của các nước thành viên trao đổi thông tin về tội phạm, trong đó có thông tin về đối tượng đang bị truy nã, tội phạm chiến tranh, tội phạm khủng bố, người mất tích…
Căn cứ theo đề nghị của Tổng hành dinh Interpol tại Lyon (Pháp) và phù hợp với Điều 3 Hiến chương Interpol, Tổng thư ký Interpol sẽ ký Lệnh thông báo quốc tế với một đối tượng nào đó. Thông báo quốc tế được phát ra bằng bốn thứ ngôn ngữ chính thức của tổ chức Interpol và có 6 loại thông báo quốc tế theo từng loại màu với ý nghĩa khác nhau.
Mục đích của 06 loại thông báo quốc tế là trợ giúp cho lực lượng hành pháp và cảnh sát các nước giải quyết những vụ án các loại hoặc tìm người quan trọng mất tích, trong đó: (i) Thông báo đỏ được dùng để truy nã những đối tượng phạm tội nguy hiểm; (ii) Thông báo vàng dùng để truy tìm hoặc xác định một người bị mất tích hoặc chưa được nhận dạng; (iii) Thông báo xanh da trời dùng để thu thập thông tin về nhân dạng của một người hoặc các hành vi bất hợp pháp liên quan đến tội phạm; (iv) Thông báo đen dùng để tìm kiếm thông tin chính xác về xác chết chưa được nhận dạng; (v) Thông báo xanh lá cây dùng cảnh báo hoặc thông báo thông tin tình báo về một đối tượng tội phạm quốc tế đã gây án ở một quốc gia và đang tìm cách thực hiện tiếp hành vi tội phạm ở một quốc gia khác; (vi) Thông báo màu da cam dùng để cảnh báo lực lượng cảnh sát và các tổ chức quốc tế về mối đe dọa tiềm ẩn của các loại vũ khí mới, khả năng bị đánh bom…
Chỉ một thời gian ngắn sau khi được thành lập, Interpol đã bắt đầu gửi lệnh truy nã quốc tế thông qua Tạp chí Cảnh sát Hình sự quốc tế hoặc website chính thức của Interpol. Theo thời gian, phương thức này đã chứng minh không đem lại nhiều hiệu quả. Do vậy, vào năm 1946, Interpol đã bắt đầu áp dụng hệ thống thông báo quốc tế và thông báo truy tìm người mất tích đầu tiên được phát ra vào năm 1949.
Thực tế cho thấy, các thông báo truy nã quốc tế của Interpol đã và đang được nhiều nước thành viên coi là tài liệu pháp lý trong việc truy bắt tội phạm bỏ trốn. Các thông báo truy nã này định kỳ hàng tháng sẽ được bộ phận phụ trách công tác truy nã quốc tế của Interpol phát hành theo yêu cầu của từng quốc gia thành viên sau đó được gửi đến tất cả quốc gia thành viên của Tổ chức Interpol để phối hợp rà soát và truy bắt các đối tượng. Cơ sở pháp lý của thông báo đỏ là lệnh truy nã của cảnh sát nước sở tại. Rất nhiều quốc gia thành viên của Interpol coi thông báo đỏ là một trong những căn cứ để thực hiện hiệp ước dẫn độ song phương.
Mặt khác, Interpol được coi là một kênh thông tin chính thức để thông báo yêu cầu dẫn độ của rất nhiều nước tham gia các hiệp định dẫn độ song phương hoặc đa phương như Hiệp ước dẫn độ trong phạm vi châu Âu, Cộng đồng kinh tế các quốc gia Tây Phi (ECOWAS)…
Khi nhận được thông báo đỏ, cảnh sát các quốc gia thành viên sẽ tiến hành biện pháp điều tra, truy tìm tội phạm và khi bắt được sẽ báo cáo về Tổng hành dinh Interpol để ra thông báo về kết quả và thời gian thực hiện việc dẫn độ tội phạm.
Hiện nay, Tổng hành dinh Interpol đang có một hệ thống để thu thập thông tin, phân tích, cập nhật và truyền tải cực nhanh và chính xác các loại thông báo của Tổng thư ký tới các quốc gia thành viên, đó là hệ thống thông tin I–24/7. Hệ thống này đã được triển khai tới Văn phòng Interpol các quốc gia thành viên và là kênh liên lạc quốc tế hữu hiệu trong nội bộ Interpol[4].
Bằng việc hệ thống và điện tử hóa các loại thông báo của mình, Interpol đang dần xã hội hóa công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, trong đó có hoạt động rửa tiền và những vấn đề liên quan đến trật tự xã hội, góp phần đắc lực cho cảnh sát gần 200 quốc gia thành viên hoàn thành nhiệm vụ giữ gìn trật tự an toàn xã hội trong tình hình mới, đồng thời, góp phần không nhỏ vào phòng, chống rửa tiền trên phạm vi bố toàn cầu hiện nay.
2. Lực lượng đặc nhiệm tài chính chống rửa tiền (Financial Action Task Force – FATF)
FATF là một tổ chức liên chính phủ, có chức năng đưa ra các tiêu chuẩn, xây dựng và phát triển các chính sách chống rửa tiền và tài trợ khủng bố. FATF được thành lập tại Paris năm 1989 bởi nhóm G7, nhằm phát triển các hoạt động hợp tác quốc tế đối phó với việc rửa tiền.
Theo FATF, rửa tiền là việc xử lý tiền do phạm tội mà có nhằm che đậy nguồn gốc bất hợp pháp của chúng để hợp pháp hóa những món lợi thu được một cách bất chính từ hành vi phạm tội. Nhiệm vụ chính của FATF là giúp các nước thành viên ban hành các quy định về phòng chống rửa tiền và tài trợ khủng bố, luật chống rửa tiền và tài trợ khủng bố. FATF chịu trách nhiệm tạo ra phần lớn các tiêu chuẩn chống rửa tiền và nó đã tạo ra một khuôn khổ cho các nước thực hiện. Mục đích của FATF là để duy trì và thúc đẩy đạo đức và những thuận lợi kinh tế của một thị trường tài chính ổn định và đáng tin cậy về pháp lý.
Bên cạnh đó, FATF thúc đẩy những biện pháp chống rửa tiền và đánh giá các nước trong việc phòng chống rửa tiền và tài trợ khủng bố, để bảo đảm các nước thành viên không chỉ ban hành hệ thống pháp luật phòng chống rửa tiền và tài trợ khủng bố, mà còn phải thực hiện hệ thống pháp luật đó một cách nghiêm túc. FATF cũng biên soạn và cập nhật danh sách những nước và những tổ chức khủng bố liên quan đến rửa tiền và tài trợ khủng bố – được gọi là danh sách đen. Mục đích của danh sách đen này là “chỉ tên và làm xấu hổ” các nước được coi là thiên đường của việc rửa riền và tài trợ khủng bố. Năm 2010, FATF đã liệt vào ”danh sách đen” 08 nước bao gồm Angola, Ecuador, Ethiopia, Iran, Pakistan, Triều Tiên, Turkmenistan, Saint Thomas and Prince. Khi danh sách được công bố, hàng loạt các ngân hàng đã cắt bỏ quan hệ đại lý với các ngân hàng tại các nước trong danh sách trên. Mặc dù một mặt, các nước trên đều phản đối danh sách này, mặt khác, hầu hết họ đều cố gắng ra khỏi danh sách trên bằng cách ban hành hoặc sửa đổi các luật lệ và quy tắc cho phù hợp với hướng dẫn của FATF, đồng thời hợp tác quốc tế toàn diện và báo cáo các giao dịch đáng ngờ[5].
Các phương thức và kỹ thuật rửa tiền luôn thay đổi nhằm đối phó với các biện pháp đấu tranh chống rửa tiền. Trong những năm gần đây, FATF đã lưu ý tới những kỹ thuật tổng hợp phức tạp, ví dụ như sử dụng ngày càng nhiều các pháp nhân để che giấu quyền sở hữu và kiểm soát thực sự đối với các khoản thu bất hợp pháp và việc sử dụng ngày càng tăng các chuyên gia nhằm tư vấn và hỗ trợ trong việc tẩy rửa các khoản tiền tội phạm. Những yếu tố này, kết hợp với những kinh nghiệm thu được trong quá trình xác định các quốc gia và vùng lãnh thổ không hợp tác của FATF, cùng những sáng kiến cấp quốc gia và quốc tế khác, đã đưa FATF đến việc rà soát và sửa đổi 40 Khuyến nghị thành một khuôn khổ mới hoàn chỉnh trong việc chống rửa tiền và tài trợ khủng bố. Hiện nay, FATF đang kêu gọi tất cả các quốc gia thực hiện các bước cần thiết để các hệ thống chống rửa tiền và tài trợ khủng bố của các quốc gia phù hợp với các Khuyến nghị mới của FATF và thực hiện có hiệu quả các biện pháp này.
40 Khuyến nghị sửa đổi hiện nay không những được áp dụng cho chống rửa tiền mà còn cho cả chống hoạt động tài trợ khủng bố[6]. FATF nhận thấy sự khác biệt trong hệ thống pháp luật và tài chính giữa các quốc gia khiến họ không thể sử dụng các biện pháp giống nhau để đạt được mục đích chung, đặc biệt là trong các vấn đề cụ thể. Do đó, các khuyến nghị đã đưa ra các tiêu chuẩn tối thiểu cần đạt được trong quá trình tiến hành các hoạt động cụ thể của mỗi quốc gia tùy theo điều kiện và khuôn khổ pháp lý của họ. Các khuyến nghị bao gồm tất cả các biện pháp mà các quốc gia cần phải có trong khuôn khổ hệ thống pháp lý và tư pháp hình sự của mình; các biện pháp phòng ngừa do các định chế tài chính và một số tổ chức kinh doanh và nghề nghiệp khác tiến hành; hợp tác quốc tế.
Tháng 10/2001, FATF đã mở rộng trách nhiệm giải quyết vấn đề tài trợ cho khủng bố và đã có bước đi quan trọng trong xây dựng 08 Khuyến nghị đặc biệt chống tài trợ khủng bố. Những khuyến nghị này bao gồm hàng loạt các biện pháp đấu tranh chống tài trợ cho hoạt động khủng bố, các tổ chức khủng bố và bổ trợ cho 40 Khuyến nghị đầu tiên, hình thành nên một khuôn khổ các biện pháp chặt chẽ, hoàn chỉnh và thống nhất để chống rửa tiền và tài trợ khủng bố. 40 Khuyến nghị trên và 08 Khuyến nghị đặc biệt của FATF đã được Quỹ tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng thế giới công nhận như là những chuẩn mực quốc tế để đấu tranh chống rửa tiền và tài trợ khủng bố.
Một yếu tố then chốt trong cuộc chiến chống rửa tiền và tài trợ khủng bố chính là việc yêu cầu các hệ thống của một quốc gia phải được quản lý và đánh giá theo các chuẩn mực quốc tế này. Các cuộc đánh giá đa phương được thực hiện bởi FATF, các tổ chức khu vực kiểu FATF, cũng như các đánh giá do Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng thế giới (WB) tiến hành, là cơ chế mang tính sống còn nhằm bảo đảm các khuyến nghị của FATF được tất cả các quốc gia thực hiện có hiệu quả[7].
Khuyến nghị về các hệ thống pháp lý quy định về phạm vi của tội phạm hình sự rửa tiền. Theo khuyến nghị, các quốc gia cần hình sự hóa tội rửa tiền trên cơ sở Công ước Liên Hợp Quốc năm 1988 chống lại việc buôn bán, vận chuyển bất hợp pháp các chất ma tuý và chất hướng thần (Công ước Viên) và Công ước Liên Hợp Quốc năm 2000 về tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia (Công ước Palermo). Các quốc gia cần áp dụng tội phạm rửa tiền vào tất cả các tội nghiêm trọng với mục đích tập hợp thành một phạm vi rộng nhất các tội phạm nguồn của tội rửa tiền. Các tội phạm nguồn này có thể mô tả bằng cách dẫn chiếu tới tất cả các tội danh, hay tới một ngưỡng có gắn liền với hoặc là một danh mục các tội danh nghiêm trọng hoặc tới hình phạt tù áp dụng với tội phạm nguồn đó (cách tiếp cận theo ngưỡng), hoặc theo danh sách các tội phạm nguồn, hoặc là kết hợp cả hai cách tiếp cận này. Các quốc gia cần áp dụng các biện pháp tương tự như những biện pháp được quy định trong Công ước Viên và Công ước Palermo, bao gồm các biện pháp pháp lý, để cho phép các cơ quan có thẩm quyền tịch thu tài sản đã được tẩy rửa, các khoản thu từ rửa tiền hoặc từ các tội phạm nguồn, các công cụ được sử dụng hoặc định sử dụng để thực hiện các tội phạm này, hoặc tài sản có giá trị tương đương mà không gây ảnh hưởng gì tới quyền của các bên thứ ba có thiện chí (bona fide).
Theo FATF, mỗi nước phải đảm bảo rằng các cơ quan có thẩm quyền thi hành pháp luật đã chỉ định chịu trách nhiệm về điều tra rửa tiền. FATF khuyến khích các nước trao quyền, hỗ trợ và phát triển kỹ thuật và cơ chế điều tra đặc biệt, ví dụ như các hoạt động điều tra tài sản và điều tra có sự hợp tác với các nước khác. Trong một nước, tất cả các cơ quan có thẩm quyền cần được huy động vào cuộc chiến chống rửa tiền, được cung cấp các nguồn lực tài chính, nhân lực và khoa học kỹ thuật. Đội ngũ cán bộ nhân viên chống rửa tiền đáp ứng được các tiêu chuẩn và được giám sát, kiểm soát. Cuối cùng, tính hiệu quả của các hệ thống chống rửa tiền của một nước phụ thuộc vào một hệ thống thông tin hữu ích. Do đó mỗi nước phải duy trì các kênh thông tin, thống kê về tính hiệu lực và hiệu quả của hoạt động điều tra cùng các khía cạnh khác nhau của hoạt động đó.
Về các biện pháp được các định chế tài chính và các loại hình kinh doanh và ngành nghề phi tài chính thực hiện nhằm ngăn ngừa hoạt động rửa tiền và tài trợ khủng bố, theo khuyến nghị, các quốc gia cần phải đảm bảo rằng luật bí mật của các định chế tài chính không ngăn cản việc triển khai các khuyến nghị của FATF. Các định chế tài chính không được giữ các tài khoản vô danh hoặc các tài khoản với những tên giả. Các định chế tài chính cần xác minh nhận dạng của khách hàng và chủ sở hữu thụ hưởng trước hoặc trong quá trình thiết lập mối quan hệ kinh doanh hoặc khi tiến hành các giao dịch đối với các khách hành ít giao dịch. Các quốc gia có thể cho phép các định chế tài chính hoàn thành việc xác minh sớm trong mức khả thi sau khi thết lập quan hệ, khi các rủi ro rửa tiền có thể được quản lý một cách hiệu quả và điều quan trọng là không làm gián đoạn công việc kinh doanh thông thường. Nếu một định chế tài chính nghi ngờ hoặc có những cơ sở hợp lý để nghi ngờ rằng khoản tiền này là khoản thu từ hoạt động phạm tội hoặc liên quan đến hoạt động tài trợ khủng bố, thì theo luật định, định chế đó phải báo cáo ngay những nghi ngờ của mình cho đơn vị tình báo tài chính (FIU). Các luật sư, các công chứng viên, chuyên gia pháp lý và kế toán viên độc lập khác phải báo cáo các giao dịch đáng ngờ, khi họ nhân danh khách hàng hoặc tham gia vào một giao dịch tài chính cho khách hàng liên quan tới hoạt động được mô tả trong khuyến nghị 12(d). Đặc biệt khuyến khích các quốc gia đưa thêm các yêu cầu báo cáo về phần còn lại trong các hoạt động nghề nghiệp của các kế toán viên, bao gồm cả việc kiểm toán; các nhà buôn bán kim loại và đá quý phải báo cáo các giao dịch đáng ngờ khi họ tham gia vào bất kỳ giao dịch bằng tiền mặt với một khách hàng bằng hoặc vượt quá mức quy định; các nhà cung cấp dịch vụ công ty và tín thác phải báo cáo các giao dịch đáng ngờ cho khách hàng khi họ nhân danh khách hàng tham gia vào một giao dịch hoặc thực hiện cho khách hàng giao dịch liên quan đến các hoạt động khác quy định trong khuyến nghị 12(e). Các luật sư, công chứng viên, chuyên gia pháp lý độc lập và kế toán viên khác hoạt động như những chuyên gia pháp lý độc lập không bị yêu cầu phải báo cáo những nghi ngờ của mình nếu thông tin liên quan có được trong những trường hợp họ phải giữ bí mật nghề nghiệp hoặc được hưởng những đặc quyền nghề nghiệp hợp pháp.
Về các biện pháp tổ chức và biện pháp khác cần thiết trong hệ thống chống rửa tiền và tài trợ khủng bố, khuyến nghị quy định các quốc gia phải thành lập các FIU hoạt động như trung tâm quốc gia để tiếp nhận (và yêu cầu, nếu được phép), phân tích và phổ biến các báo cáo giao dịch đáng ngờ (STR) và các thông tin khác về việc rửa tiền và tài trợ khủng bố có nguy cơ xảy ra. FIU phải được tiếp cận, trực tiếp hoặc gián tiếp, một cách kịp thời các thông tin tài chính, hành chính và hành pháp mà FIU yêu cầu để thực hiện đúng đắn chức năng của mình bao gồm cả phân tích STR. Các quốc gia phải đảm bảo rằng các cơ quan thi hành pháp luật được chỉ định có trách nhiệm điều tra chống rửa tiền và tài trợ khủng bố. Khuyến khích các quốc gia hỗ trợ và phát triển theo khả năng các kỹ thuật điều tra đặc biệt, phù hợp với việc điều tra rửa tiền, chẳng hạn như thả lỏng có kiểm soát, các hoạt động đặc tình và các kỹ thuật thích hợp khác. Các quốc gia cũng được khuyến khích sử dụng các cơ chế hiệu quả khác, ví dụ như việc sử dụng các nhóm thường xuyên hoặc tạm thời chuyên về điều tra tài sản và hợp tác điều tra với các cơ quan có thẩm quyền thích hợp ở các quốc gia khác. Các quốc gia phải trang bị cho các cơ quan có thẩm quyền tham gia vào công cuộc chống rửa tiền và tài trợ khủng bố nguồn kỹ thuật, nhân lực và tài chính đầy đủ. Các quốc gia phải có các quy trình đảm bảo rằng nhân viên của các cơ quan này có được sự liêm chính cao. Các quốc gia phải đảm bảo rằng các nhà làm chính sách, FIU, cơ quan thực thi pháp luật và các giám sát viên có cơ chế hiệu quả cho phép họ hợp tác và ở nơi thích hợp thì điều phối với nhau trong nước liên quan đến việc xây dựng và thực hiện các chính sách và hoạt động để chống rửa tiền và tài trợ khủng bố. Các quốc gia phải đảm bảo rằng các cơ quan có thẩm quyền có thể đánh giá hiệu quả những hệ thống của mình để chống lại các hệ thống rửa tiền và tài trợ khủng bố bằng cách duy trì các số liệu thống kê toàn diện về các vấn đề liên quan đến tính hiệu quả và hiệu lực của các hệ thống này. Điều này phải bao gồm các thống kê về STR nhận được và đã chuyển giao; về các cuộc điều tra, khởi tố và xét xử về rửa tiền và tài trợ khủng bố; về số tài sản đã bị phong tỏa, niêm phong và tịch thu; về tương trợ pháp lý đa phương và các yêu cầu hợp tác quốc tế khác.
Về hợp tác quốc tế, theo khuyến nghị, các quốc gia cần tiến hành ngay các bước để trở thành thành viên và thực hiện đầy đủ Công ước Viên, Công ước Palermo và Công ước quốc tế năm 1999 của Liên Hợp Quốc về việc trấn áp hoạt động tài trợ cho khủng bố. Các quốc gia cũng được khuyến khích phê chuẩn và thực hiện các Công ước quốc tế liên quan khác như Công ước năm 1990 của Hội đồng Châu Âu về tẩy rửa, truy tìm, bắt giữ và tịch thu các khoản thu nhập từ tội phạm và Công ước Liên Mỹ về chống khủng bố năm 2002. Các quốc gia cần cung cấp phạm vi hỗ trợ pháp lý đa phương rộng nhất có thể một cách nhanh chóng, hiệu quả và mang tính xây dựng trong việc điều tra, truy tố và các thủ tục tố tụng khác có liên quan đến rửa tiền và tài trợ khủng bố.
3. Cơ quan phòng chống ma túy và tội phạm của Liên Hợp Quốc (UNODC)
Cơ quan phòng chống ma túy và tội phạm của Liên Hợp Quốc (UNODC) được thành lập năm 1997. Tiền thân của UNODC là Chương trình Kiểm soát ma túy (UNDCP) và Trung tâm Ngăn chặn tội phạm quốc tế (CICP) của Liên Hợp Quốc[8]. UNODC đặt trụ sở tại Viên, Áo. Cơ quan này cung cấp các hoạt động hỗ trợ kỹ thuật để giúp các quốc gia chống lại tội phạm động, thực vật hoang dã. Các hoạt động được thực hiện trên toàn thế giới, ở các quốc gia phân bố, trung chuyển và tiêu thụ của động, thực vật hoang dã. Cụ thể, UNODC hỗ trợ việc rà soát các văn bản quy phạm pháp luật trong nước; cung cấp đào tạo chuyên môn và trang thiết bị cho kiểm lâm, công an, hải quan, các công tố viên, điều tra viên, thẩm phán và quan tòa, kể cả việc đưa cố vấn vào các đơn vị đặc nhiệm; tăng cường cơ chế kiểm soát việc vận chuyển hàng hải quốc tế tại các cảng lớn; xây dựng năng lực để phân tích pháp y tại các nước có động, thực vật hoang dã bị ảnh hưởng; phát triển các chiến lược để ngăn chặn tội phạm động, thực vật hoang dã bao gồm hỗ trợ quyền lợi người dân, nâng cao nhận thức và trao quyền cho người dân; cung cấp sinh kế thay thế cho các cộng đồng bị ảnh hưởng; và hỗ trợ hợp tác quốc tế giữa các cơ quan thực thi pháp luật[9].
Các nội dung căn bản của UNDOC bao gồm[10]:
– Nguồn tài chính: Nguồn tài chính của UNODC chủ yếu dựa trên các khoản đóng góp tự nguyện của các Chính phủ thành viên (chiếm tới 90% ngân sách). Ngoài ra, UNODC được một số các tổ chức tài trợ quốc tế tài trợ qua các chương trình, dự án cụ thể.
– Sứ mệnh và hoạt động: UNODC được thành lập nhằm các mục tiêu hỗ trợ các quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc đấu tranh chống ma túy, chống tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm có tổ chức và khủng bố.
– UNODC hoạt động trên 3 trụ cột:
(i) Nghiên cứu và phân tích nâng cao kiến thức và hiểu biết về các vấn đề ma túy, tội phạm trên thế giới; mở rộng cơ sở dữ liệu phục vụ cho các quyết định về chính sách và hoạt động của các quốc gia cũng như các tổ chức quốc tế; trên cơ sở các kinh nghiệm thu được, UNODC xây dựng các chủ trương sách lược hành động để đối phó hiệu quả.
(ii) Thiết lập hệ thống pháp quy hỗ trợ các quốc gia trong việc phê chuẩn và thực hiện các hiệp ước quốc tế; giúp xây dựng hệ thống pháp luật quốc gia phòng chống ma túy, tội phạm và khủng bố; cung cấp các dịch vụ thư ký và chuẩn bị nội dung cho các tổ chức được thành lập theo các điều ước quốc tế và các tổ chức điều hành.
(iii) Thực hiện các dự án hợp tác kỹ thuật trên thực địa nhằm giúp các quốc gia thành viên tăng cường năng lực đấu tranh phòng, chống ma túy, tội phạm và khủng bố.
– Cơ cấu tổ chức: Đứng đầu UNODC là một Tổng giám đốc. Hiện nay, Tổng giám đốc của UNODC đồng thời là Tổng giám đốc Văn phòng Liên Hợp Quốc tại Viên (Ngài Antonio Maria Costa (Quốc tịch Ý)). Giúp việc Tổng giám đốc là các Phó Tổng giám đốc và Ban Thư ký. Bộ máy của UNODC gồm hơn 500 nhân viên làm việc tại Trụ sở chính và tại 21 Văn phòng UNODC khu vực và tại Văn phòng liên lạc của UNODC tại New York.
Về cơ cấu, tháng 6/2003, nhằm đơn giản hóa và hợp lý hóa hoạt động, UNODC đã thông qua cơ cấu tổ chức mới gồm 04 ủy Ban là:
(i) Ban Điều hành;
(ii) Ban Điều ước và các vấn đề pháp lý;
(iii) Ban nghiên cứu và các vấn đề quan hệ công cộng;
(iv) Ban Quản lý.
– Một số nét về các lĩnh vực hoạt động của UNODC: Theo chức năng nhiệm vụ, hoạt động của UNODC gồm các Chương trình toàn cầu phòng, chống ma túy (sản xuất, buôn bán và các tội phạm liên quan tới ma túy), chống tội phạm có tổ chức và xuyên quốc gia, chống tham nhũng, chống buôn bán người, chống khủng bố và chống rửa tiền. Trên cơ sở các nguyên tắc đó, UNODC giúp đỡ các quốc gia đấu tranh chống ma túy, tội phạm và khủng bố… Hiện nay, các lĩnh vực UNODC tập trung ưu tiên hỗ trợ bao gồm:
+ Thực hiện cách tiếp cận lồng ghép các vấn đề ma tuý và tội phạm
+ Đặt các vấn đề ma tuý va tội phạm trong bối cảnh phát triển bền vững
+ Cân bằng các hoạt động giữa ngăn chặn và thực thi pháp luật
+ Lựa chọn các hoạt động trên cơ sở có tầm nhìn chiến lược và nắm rõ tình hình
+ Giúp thiết lập các thể chế nhằm thúc đẩy áp dụng những kinh nghiệm thực tế tốt nhất của quốc tế.
+ Khai thác các nguồn lực để tận dụng sức mạnh của hợp tác.
4. Các tổ chức khu vực FSRBs (FATF – Style Regional Bodies)
Bên cạnh FATF, còn có một số lực lượng quốc tế khác đóng vai trò hết sức quan trọng trong cuộc chiến chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố. Những nhóm này được tổ chức theo vùng địa lý hoặc theo những mục đích đặc biệt của tổ chức.
Được xây dựng theo mô hình FATF thu nhỏ và cũng giống như FATF, mục tiêu của FSRBs là chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố. FSRBs có 03 chức năng chính là: (i) Thúc đẩy việc thực hiện và tuân thủ 40 khuyến nghị về chống rửa tiền và 09 khuyến nghị đặc biệt về chống tài trợ khủng bố của FATF; (ii) Thực hiện việc đánh giá chéo giữa các nước thành viên để xác định và giúp các nước thành viên khắc phục những điểm yếu trong chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố; (iii) Cung cấp cho các nước thành viên thông tin về các xu hướng, thủ đoạn và những diễn biến khác của hoạt động rửa tiền trong các Báo cáo về thủ đoạn rửa tiền hàng năm.
FSRBs là các tổ chức mang tính tự nguyện và hợp tác. Tư cách thành viên được mở cho tất cả những quốc gia hoặc các nước và vùng lãnh thổ trong một khu vực địa lý cam kết sẵn sàng tuân thủ các quy tắc và mục đích của tổ chức. Một số thành viên của FATF cũng là thành viên của FSRBs. Những FSRBs hiện đang được FATF thừa nhận bao gồm[11]:
– Nhóm châu Á/Thái Bình Dương về chống rửa tiền (APG);
– Lực lượng đặc nhiệm tài chính khu vực Caribe (CFATF);
– Hội đồng Ủy ban châu Âu lựa chọn các chuyên gia đánh giá các biện pháp chống rửa tiền (MONEYVAL);
– Nhóm chống rửa tiền khu vực Đông và Nam Phi (ESAAMLG);
– Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền khu vực Nam Mỹ (GAFISUD).
Ví dụ, Nhóm Châu Á – Thái Bình Dương về chống rửa tiền (APG) là một tổ chức hợp tác quốc tế độc lập được thành lập vào năm 1997. Tổ chức này có 41 quốc gia thành viên và một số nhà quan sát quốc tế và khu vực, bao gồm cả Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền (FATF), Quỹ Tiền tệ quốc tế, Ngân hàng Thế giới, Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế và Đơn vị tình báo tài chính Egmont (Nhóm Egmont).
APG có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm thực thi có hiệu quả các tiêu chuẩn quốc tế về chống rửa tiền và tài trợ khủng bố, đặc biệt là các khuyến nghị của Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền[12].
Từ tháng 5/2007, Việt Nam đã trở thành thành viên của APG (nhóm Châu Á – Thái Bình Dương về chống rửa tiền)[13].
5. Một số kinh nghiệm rút ra đối với Việt Nam
Hiện nay, hoạt động rửa tiền diễn ra ngày càng phức tạp quy mô lớn. Tội phạm rửa tiền sử dụng các phương pháp ngày càng tinh vi để dịch chuyển tài sản bất hợp pháp qua hệ thống tài chính trên toàn cầu. Cộng đồng quốc tế nỗ lực đối phó với những biện pháp mạnh mẽ. Nhiều tiêu chuẩn quốc tế được ban hành, cung cấp phương tiện giúp các quốc gia xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý và thể chế cùng các biện pháp phòng ngừa, xử lý tội phạm rửa tiền.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, cần phải có sự hợp tác giữa các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam trong việc phòng chống rửa tiền và ngăn ngừa sự dịch chuyển của các tài sản bất minh. Phải đảm bảo có cơ chế hiệu quả phù hợp cho phép các nhà hoạch định chính sách, các cơ quan thi hành pháp luật, cơ quan giám sát thể chế tài chính và các cơ quan có thẩm quyền liên quan khác của quốc gia có thể hợp tác với nhau. Luật và cơ chế của một nước được coi là phương tiện tạo thuận lợi cho việc hợp tác giữa các cơ quan có thẩm quyền khác nhau, tạo thuận lợi cho việc phối hợp giữa các cơ quan, không cản trở và thúc đẩy các nỗ lực chống rửa tiền.
Khi nghiên cứu kinh nghiệm của các thiết chế quốc tế về phòng chống rửa tiền và ngăn ngừa sự dịch chuyển của các tài sản bất minh, đều liên quan đến những góc độ nhất định về việc kiểm soát thu nhập, tài sản và kiểm soát hành vi của cán bộ công chức, viên chức. Trong giới hạn nhiệm vụ, quyền hạn của mình, công chức phải công khai, minh bạch về thu nhập và tài sản của mình. Trong trường hợp cần thiết thì cán bộ, công chức, viên chức phải thực hiện trách nhiệm giải trình của mình để đảm bảo những hoạt động của mình là đúng pháp luật, không lạm dụng quyền lực nhà nước. Bên cạnh đó, hành vi của cá nhân và hành vi của tổ chức trong quá trình thực hiện hoạt động công quyền cần phải được kiểm soát để tránh sự cấu kết tạo thành những lợi ích nhóm, đồng thời tránh việc hoạt động công vụ để thu được những lợi ích bất chính. Thông qua việc phòng chống rửa tiền và ngăn ngừa sự dịch chuyển của các tài sản bất minh giúp cho chúng ta kiểm soát tốt hơn thu nhập, tài sản của cán bộ, công chức, viên chức, đồng thời phòng chống được những hành vi tham nhũng, để thu được những tài sản, nguồn lợi bất chính.
Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế, với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và mạng internet có thể triển khai dự án kiểm soát toàn bộ thu nhập của nhân dân, tiến tới thực hiện việc thanh toán không dùng tiền mặt. Đây có thể coi là biện pháp quan trọng và cơ bản nhất nhằm kiểm soát được thu nhập của người có chức vụ quyền hạn. Biện pháp này không chỉ giúp phát hiện những biến động đáng ngờ về tài sản, thu nhập của bản thân người có chức vụ quyền hạn mà còn của người thân của họ.
Để minh bạch hóa tài sản cá nhân, phòng chống rửa tiền và, ngăn ngừa sự dịch chuyển của các tài sản bất minh trong thời gian tới chúng ta cần phải khoanh vùng những quan chức bắt buộc phải kê khai, tập trung vào các ngành và nhóm dễ tham nhũng nhất. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, kê khai tài sản đại trà thường không phải là một việc khả thi và có kết quả tốt vì vậy đối tượng kê khai tài sản, thu nhập nên dựa vào cấp bậc, vị trí để thực hiện. Nghĩa là tập trung vào các công chức cao cấp có nhiều quyền lực, có nguy cơ tham nhũng lớn. Mặt khác, việc kiểm tra chặt chẽ nội dung kê khai rất quan trọng. Những khó khăn trong lĩnh vực này có liên quan đến nguồn lực và năng lực quản lý dữ liệu, nhưng cũng phát sinh từ yêu cầu tiếp cận các nguồn dữ liệu bên ngoài để đối chiếu với tài sản kê khai.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, hiệu quả và độ tin cậy của hệ thống kê khai tài sản cá nhân đòi hỏi phải đảm bảo hiệu lực răn đe khi phát hiện vi phạm trong qui định về kê khai tài sản cá nhân và hiệu lực răn đe về hậu quả đối với những vi phạm, nhất là đối với các quan chức không kê khai, kê khai tài sản không trung thực. Nếu các bản kê khai tài sản không khớp với các điều tra độc lập thì công chức, viên chức phải bị từ chức, bị buộc thôi việc hoặc không được đề bạt vào các chức vụ cao hơn. Mặt khác việc người dân được tiếp cận với các tài liệu kê khai tài sản cũng giúp giảm đáng kể nạn tham nhũng. Cần có cơ chế công khai về hoạt động, thu nhập tài sản của cán bộ, công chức, viên chức và xác định được những nội dung nào có thể công khai, nội dung nào cần được bảo mật. Vấn đề đặt ra là phải cân bằng giữa việc tiếp cận thông tin của công chúng và đảm bảo quyền riêng tư của cá nhân người kê khai.
Theo kinh nghiệm quốc tế, việc khai báo thuế hàng năm cũng là một trong những công cụ đắc lực trong phòng chống rửa tiền và kiểm soát tài sản thu nhập của cán bộ, công chức. Trong thực tiễn, khai báo thuế nếu được làm tốt sẽ thay thế việc khai báo đại trà và là công cụ kiểm soát tài chính cũng như các nguồn thu bất thường, do vậy cần được điều chỉnh, đẩy mạnh và hoàn thiện. Mặt khác cần có các cơ quan chuyên môn tài chính, kiểm toán, thanh tra để thẩm tra các khai báo tài sản cá nhân, kiểm tra giám sát, xử lý tài sản bất hợp pháp, tài sản không rõ nguồn gốc. Nếu khai báo tài sản không trung thực, cố tình che dấu tài sản cá nhân thì người kê khai phải bị xử lý theo quy định.
Thực tiễn cho thấy rửa tiền là loại tội phạm nguy hiểm gây ảnh hưởng tiêu cực đối với nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới. Trong giai đoạn hiện nay nhiều quốc gia trên thế giới đã và đang có những nỗ lực trong phòng chống rửa tiền và ngăn ngừa sự dịch chuyển các tài sản bất minh. Hoạt động hợp tác quốc tế trong phòng, chống rửa tiền và ngăn ngừa sự dịch chuyển các tài sản bất minh cũng đang diễn ra rất mạnh mẽ và mang lại hiệu quả thiết thực. Việt Nam trong thời gian tới cần đẩy mạnh hợp tác, học hỏi kinh nghiệm quốc tế về phòng, chống rửa tiền và ngăn ngừa sự dịch chuyển các tài sản bất minh nhằm quản trị nhà nước tốt và phòng chống tham nhũng có hiệu quả.
Khoa Pháp luật quốc tế, Trường Đại học Luật Hà Nội
[5] Trịnh Thanh Huyền – Nguyễn Thị Mai, “Khuyến nghị của cơ quan Đặc nhiệm Tài chính về phòng chống rửa tiền”, xem tại: Http://tapchitaichinh.vn/viet-nam-chong-rua-tien,-tai-tro-khung-bo/khuyen-nghi-cua-co-quan-dac-nhiem-tai-chinh-ve-phong-chong-rua-tien-64384.html.
[11] Hải An: “Các tổ chức quốc tế và khu vực hoạt động trong lĩnh vực chống rửa tiền và chống tài trợ cho khủng bố”. http://tapchitaichinh.vn/tai-chinh-quoc-te/tin-tuc/cac-to-chuc-quoc-te-va-khu-vuc-hoat-dong-trong-linh-vuc-chong-rua-tien-va-chong-tai-tro-cho-khung-bo-52361.html.
Tin liên quan
Hệ thống Tòa án và các cấp Thẩm phán của Trung Quốc
Qua nghiên cứu Luật tổ chức Tòa án và Luật Thẩm phán của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, tác giả xin giới thiệu về cơ cấu tổ chức của hệ thống Tòa án và các cấp Thẩm phán của quốc gia này, đây có ...
Xem thêmQuy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân tại một số quốc gia trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam
Dựa trên các học thuyết về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại và quy định của các nước Trung Quốc, Pháp, Nhật Bản, Mỹ, tác giả kiến nghị hoàn thiện Bộ luật Hình sự năm 2015: Mở rộng đối ...
Xem thêmĐiều khoản “Miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do chậm trễ” trong hợp đồng xây dựng quốc tế
Điều khoản “miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do chậm trễ” là một công cụ pháp lý thường được sử dụng trong các hợp đồng xây dựng quốc tế. Tuy nhiên, vấn đề về tính hợp pháp của điều khoản này ...
Xem thêm